Tản mạn nghề Y và phá Nội Kinh Tố Vấn !
Khí tiên thiên thuần dương giáng xuống phối với khí tiên Thiên thuần âm thăng lên , tiếp theo một hào dương chuyển từ khí thuần dương sang khí thuần âm và một hào âm chuyển trong khí âm sang khí thuần dương từ đây là hồi của hậu thiên là hồi sinh vạn vật , định các cõi (không gian) , thứ tự sinh từng hội ( thời gian), đặc biệt khoảng cách giữa các cõi là khoảng trống không, khoảng không thời gian .
Thăng và Giáng đều chung một bản chất của sự rung động nhưng chúng khác chiều.
Dương luôn luôn khởi động trước Âm.
Khoảng Triệt không,
Viết tại Hawai’i 5/5/2019 ( Năm Kỷ Hợi, tháng Kỷ Tỵ, ngày Nhâm Dần. )
6/14/2019 Khí Prana là khí tiên thiên còn có thể gọi là Sinh khí hoặc khí thuần dương
Sinh khí được sinh ra bởi Mặt Trời luôn luôn giáng ( chiếu ) xuống Quả Đất làm cho khí của Quả Đất thăng lên từ đó ta có Dưỡng khí
Dưỡng khí này ta có thể hiểu là khí Hậu thiên. Vậy không khí ta đang thở đây là khí Hậu thiên.
Khí Hậu thiên chỉ duy trì sự sống.
Khí Tiên thiên tạo ra sự sống.
Vòng lưu chuyển này tuần hoàn sinh ra nuôi dưỡng muôn loài,
CHỨNG MINH BỘ MẠCH LỤC KHÍ.
( Bằng sóng Não).
Dùng phương pháp châm cứu của Lục Khí chuyển sóng Não của người bệnh sang sóng não của người khoẻ, điều này tôi tiên liệu là có thể ( đã từng thực nghiệm cho vùng sóng ở tiểu Não) và tạo ra một nền tảng vững chắc cho phương pháp châm lục khí, bước đi này có thể làm nên được điều gì chăng?
Với bề dày lịch sử Châm Cứu từ lúc khai sinh cho đến nay
PHÁ NỘI KINH !
Xưa nay đọc hiểu Nội Kinh là khó.
Phá Nội Kinh càng khó hơn.
Vào thập kỷ 1980 đã có người phá Nội Kinh.
Người phá Nội Kinh đó là Ân Sư Đồng Thiện Minh. Người đã đưa ra lý thuyết khi Dịch chuyển từ Tiên Thiên Bát Quái qua Hậu Thiên Bát Quái ( Là lúc Tiên Thiên Càn Khôn phân định chuyển qua Khi Càn dịch chuyển xuống ( Dương giáng) Khôn dịch chuyển lên ( Âm thăng), Càn Khôn giao phối Càn đi về Tây Bắc, Khôn về Tây Nam nhường vi trí cho Thuỷ Hoả lúc này Vũ Trụ thành hình ta có Hậu Thiên Bát Quái Đồ (sơ đồ vũ trụ, Mạn Đà La).
Dựa vào sự thành hình Vũ Trụ từ Tiên Thiên bát quái chuyển sang hậu thiên bát quái và sau đó thành lập lý thuyết cho nền Y Học Lục Khí. Được đặt tên là Tiên Long y chỉ.
Khi Càn Khôn rất phối thì sinh ra vạn vật theo từng hồi :
Hồi thứ 1:Thiên Nhất sinh Thuỷ ( Trời sinh đầu tiên là Thuỷ).
Đia nhị sinh Hoả ( Đất sinh Lửa).
Hồi thứ 2: Thiên tam sinh Mộc ( Trời sinh Sấm Sét, Cây Cỏ).
Đia tứ sinh Kim ( Đất sinh Kim, Mây {sương} ).
Hồi thứ 3: Thiên ngủ sinh Thổ ( Trời sinh ra Thổ { vạn vật hữu hình})
Nói cách khác. Hội Tý sinh Thuỷ. Hội Sửu sinh Hoả. Hội Dần sinh Mộc. Hội Mão sinh Kim. Hội Thìn sinh Thổ.
Hoặc : Thiên nhất sinh Thuỷ, Địa nhị Hoả, Thiên tam sinh Mộc, Đia tứ sinh Kim, Thiên ngũ sinh Thổ.
Nội Kinh không dựa vào sự thành hình Vũ Trụ của Tiên thiên bát quái và hậu thiên bát quái mà thành lý thuyết Y Học.
Nội Kinh dựa vào học thuyết âm dương, ngũ hành, tạng tượng , Tinh khí thần, kinh lạc… và sau đó thành hình lý thuyết Y Học.
Vì sự khác biệt giữa hai nền tảng nên có một số khác biệt căn bản. Như vậy có một lý luận khác nhau.
Đây là trọng tâm phá Nội Kinh là luận chứng trên.
Ví dụ : Về Mạch học .
Với Nguyên phái:
Đưa ra bộ mạch theo kinh nghiệm lâm sàng và các bật y gia tên tuổi, và dựa vào Ngũ Hành sinh khắc.
Thành phái {Lục khí}:
Đưa ra bộ mạch trên cơ sở Dịch học và được chứng minh rất rõ rệt . và có 6 hành nên như vậy được gọi là phái Lục khí
(Có người nói và giảng bài: Trời sinh Lục khí. Đất sinh Ngũ hành. điều này là tự đặt ra chứ trong kinh dịch chưa có một dòng chử nào viết như vậy.)
Về Kinh Lạc .
Với Nguyên phái tự đặc:
Tỉnh huyệt của kinh dương là hành[ KIM ]
Tỉnh huyệt của kinh âm là hành[ MỘC]
Với Thành phái được chứng minh trên dịch học.
Tỉnh huyệt của kinh dương là hành mang hành gốc của nó ; ví dụ: Kinh Bàng quang thuộc hành Thủy của quẻ Khảm như vậy Tỉnh huyệt (Chí Âm) kinh Bàng Quang là hành Thủy và là quẻ Khảm.
Tỉnh huyệt của kinh âm là hành của kinh Dương đứng sau của cung Thủy là hành + Mộc ( hành Thử ), như vậy Tỉnh huyệt của kinh Thận là huyệt Dũng Tuyền được mang hành Thử.
Thứ tự các kinh Âm Dương khác được tính như trên và tiếp theo hành của Vinh huyệt kinh Bàng Quan là hành + Mộc, Du huyệt mang hành – Mộc, Nguyên Huyệt mang hành-Hỏa, Kinh huyệt mang hành + Thổ, Hợp huyệt mang hành + Kim.
Về Phép Bổ Tả.
Với Nguyên Phái: Bổ, tả theo ngũ hành ( 5 ), Kinh Lạc phép bổ, tả châm Kim theo thuận chiều đi của kinh gọi là Bổ lưu kim lâu, Châm Kim ngược chiều đi của kinh gọi là Tả lưu Kim ít thời gian.
Với Thành Phái (Lục Khí ).
Bổ theo thuận hành Lục Khí ( 6 Hành )
Tả theo cặp đối xứng ví dụ: Thủy Hỏa , Kim Mộc, Mộc Thổ.
Phép Bổ Tả của Phái Lục Khí về châm cứu dùng hai huyệt thu ( thăng ) và phát (giáng) trên đường Kinh đó. Thu khí vô là Bổ, Phát khí ra cho đường kinh khác là Tả.
Với sự khác biệt về Mạch học, Kinh Lạc….vì vậy sẽ có phần luận chứng khác nhau, cũng từ đó đưa ra Pháp Trị khác nhau và Phương Trị cũng khác nhau.
Con Người là sinh vật đứng đầu mọi sinh vật và có tánh Linh, là sinh vật duy nhất thông được đạo , hiểu biết về Vũ Trụ ( qua câu nói của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni THIÊN THƯỢNG HẠ ĐỊA DUY NGÃ ĐỘC TÔN. )
Nội dung một quyển kinh hay là bộ kinh.
Trong Tôn Giáo đa số những điều do vị Giáo Chủ nói ra sau đó các đệ tử ghi lại được gọi là Kinh.
Lời trong một bộ Kinh là không thể thay đổi.
TÂM BÌNH KHÍ HOÀ
Khi Dương giáng Âm thăng vạn vật khởi sinh.
Khi Dương thăng Âm giáng vạn vật huỷ diệt.
Khi muốn tiệt trùng một sản phẩm thực phẩm!
Ta đưa nhiệt lên cao ( Dương thăng ), sau đó hạ nhiệt xuống thấp ( Âm giáng ),
với điều kiện thay đổi khoảng cách nhiệt với thời gian ngắn nhất.
Như vậy sản phẩm đã tiệt trùng
Nhiệt được kiểm soát cho hệ vi sinh.
Hôm nay 2/20/19 ngày Mậu Tý, tháng Bính Dần, năm Kỷ Hợi. Tại 8931 Westminster G.G.
Bằng phương pháp châm lục khí cho anh B đã hạ chỉ số đường huyết từ 253 xuống còn 153.
Hôm nay ngày Canh Dần, tháng Bính Dần, Năm Kỷ Hợi. Tôi tìm thuốc chữa chứng lo sợ, kinh uý
Bài thuốc này được tìm ra và đặt tên Sinh khí dưỡng Tâm, an thần. hay gọi là Bổ Tâm.
Hôm nay 4/1/2019. Kỷ Hợi, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Mùi. Tôi tìm thuốc trị bệnh Tiểu Đường.
Bài thuốc này được tìm ra bởi một sự tình cờ và phần biện chứng trên Dịch lý , Y lý .
Bài thuốc được đặt tên Ký Tế đan hay gọi bổ Thuỷ Hoả đan.
Thằng bạn học thời trung học.
Này Phép mày lấy vợ đi là hết bệnh, câu chuyện này sảy ra tại quán Cafe Tùng ( Đà Lạt) , sau đó hắn lấy vợ tên Nhung.
Bệnh Động Kinh hắn nói đã hết bệnh rồi.
Chuyện lạ nhưng đã sảy ra.
Tại sao trong hệ thống Ngũ du huyệt ?
Kinh Âm có 5 huyệt ?
Kinh dương có 6 huyệt?
Âm vốn khuyết.
Dương vốn thừa.
Âm tòng Dương.
Âm hàm Dương.
Dương bọc Âm.
Số 5 trong Hậu Thiên bát quái là quẻ Tốn ( Phong )
Số 6 trong Hậu Thiên Bát Quái là quẻ Khảm ( Thủy ).
Đem chồng quái ta có quẻ kép là Phong Thủy Hoán. ( Phong ngộ Thủy tất hoán).
Hoặc chồng quái Thủy Phong Tỉnh (là khơi nguồn thủy dịch mãi mãi không dứt).
Vậy ta sử dụng hệ Ngũ Du huyệt đủ số ta có sự HOÁN ĐỔI khí huyết trong cơ thể.
- Sự HOÁN ĐỔI tùy theo mạch tượng mà Y Gia quyết định HOÁN ĐỔI để bộ mạch trở về dạng mạch HỒNG HOẠT.
- Nếu sự HOÁN ĐỔI thành công coi như Y Gia đã thu công.
Hộ Luân Kim Cang Giáp
( Trị những chứng bệnh hiện Y Học hiện đại chưa giải quyết được )
Hộ Luân Kim Cang Giáp (Bánh Xe Hộ Trì : Áo Giáp Kim Cang) Nghi Thức Hành Trì
Qui Y- Phát Tâm Bồ Đề
Con xin về nương dựa
nơi Phật, Pháp và Tăng
cho đến khi giác ngộ.
Với công đức có được
nhờ hành trì hạnh Thí
cùng hạnh Toàn Hảo khác, nguyện đạt chánh đẳng giác vì lợi ích chúng sinh.
Tám Câu Kệ Chuyển Hóa Tâm.
- Với quyết tâm thành tựu lợi lạc lớn lao nhất
nhờ tất cả chúng sinh, con nguyện luôn giữ gìn chúng sinh trong đáy tim, vì chúng sinh quí hơn
cả bảo châu như ý. - Khi gặp gỡ tiếp xúc với bất kỳ một ai,
nguyện con luôn thấy mình là kẻ thấp kém nhất;
từ đáy lòng chân thật
luôn tôn kính mọi người như kính bậc tối cao. - Nguyện trong từng hành động con luôn tự xét mình.
Phiền não vừa dấy lên,
đe dọa mình và người, nguyện tức thì nhận diện,
và tức thì dẹp tan. - Khi gặp người hiểm ác vì bị tâm phiền não
và ác nghiệp tác động, nguyện con quí người ấy như vừa tìm ra được
kho tàng trân quí nhất. - Khi gặp người vì lòng ganh ghen và đố kỵ
miệt thị phỉ báng con, nguyện con nhận phần thua, nhường đi mọi phần thắng. - Khi gặp người con thường giúp đỡ, đặt kỳ vọng,
lại vong ân bội nghĩa
gây tổn hại cho con, nguyện con xem người ấy là một đấng tôn sư. - Tóm lại con xin nguyện trực tiếp và gián tiếp trao tặng mọi lợi lạc cho tất cả chúng sinh đều là mẹ của con
từ vô lượng kiếp trước. Nguyện [không đợi ai cầu vẫn] âm thầm gánh chịu mọi ác nghiệp khổ não thay thế cho chúng sinh. - Nguyện những điều nói trên không bị vướng ô nhiễm
bởi tám ngọn gió chướng. - Nguyện con thấy mọi sự hiện ra trong cõi đời đều chỉ như huyễn mộng cho tâm thôi chấp bám thoát ràng buộc luân hồi.
Tứ Vô Lượng Tâm
Ước gì chúng sinh có được tâm xả,
Thoát vòng ràng buộc của hận thù, tham đắm Phân biệt người thân, kẻ lạ.
10. Nguyện chúng sinh an trú trong tâm xả. - 11.Nguyện con có khả năng giúp chúng sinh an trú trong tâm xả.
12.Nguyện đấng Bổn sư Pháp chủ gia trì cho con có đủ khả năng làm nên việc này.
Ước gì chúng sinh được hạnh phúc và nhân duyên tạo hạnh phúc.
13.Nguyện chúng sinh đều được như vậy. - 14.Nguyện con có khả năng giúp chúng sinh đều được như vậy.
15.Nguyện đấng Bổn sư Pháp chủ gia trì cho những người ghét quí vị. Nhưng chủ yếu con có đủ khả năng làm nên việc này. vẫn nên dành thời gian để quán sự nhận
Ước gì chúng sinh thoát khổ và nhân duyên tạo khổ.
16.Nguyện chúng sinh đều được như vậy. Nguyện con có khả năng giúp chúng sinh
đều được như vậy.
17.Nguyện đấng Bổn sư Pháp chủ gia trì cho
con có đủ khả năng làm nên việc này.
Ước gì chúng sinh vĩnh viễn không xa lìa niềm an lạc của thiện đạo và giải thoát.
18.Nguyện chúng sinh vĩnh viễn không xa lìa an lạc.
19.Nguyện con có khả năng giúp chúng sinh không xa lìa an lạc.
20.Nguyện đấng Bổn sư Pháp chủ gia trì cho con có đủ khả năng làm nên việc này.
Pháp Quán Cho và Nhận (Tong-len)
Quí vị hãy phát tâm từ bi vô lượng đối với chúng sinh, nghĩ rằng:
“Thật tốt biết bao nếu tất cả chúng sinh đều thoát khỏi khổ đau và thoát cả nguyên nhân tạo khổ.”
Rồi gánh hết tất cả mọi vấn đề của chúng sinh về phần mình, nhất là các loại khổ đau đến từ bịnh tật, đến từ mối tương giao giữa người và người.
Nhận lãnh mọi khổ đau cùng nguyên nhân tạo khổ, mọi mê muội ám chướng, mọi điều không ai mong cầu, gom thành một khối ô nhiễm, cho thấm hết vào vọng tâm chấp ngã, khiến vọng tâm chấp ngã bị phá hủy hoàn toàn. Và rồi cái “ngã” mà vọng tâm bám vào, tưởng rằng quí giá lắm, bây giờ trở thành không [không có tự tánh].
Trụ tâm trong tánh Không càng nhiều càng tốt.
Quán sự nhận về như vừa nói trên, rồi quán về tánh Không. Thỉnh thoảng có thể mở tâm từ ái để hồi hướng tất cả thân mình, sở hữu và ba thời công đức của mình về cho người khác, đặc biệt là cho
về.
Điều cần phải nhớ cho thật rõ, đó là tất cả mọi vấn đề nói trên đều đến từ vọng tâm chấp ngã: tất cả mọi vấn đề phiền não đều do vọng tâm chấp ngã ban tặng cho tôi, chẳng lý do gì mà tôi lại nhận, vì vậy xin hoàn trả phiền não về lại cho vọng tâm chấp ngã, để vọng tâm chấp ngã chịu khổ một mình. Bất cứ gặp vấn đề gì quí vị cũng có thể làm theo như vậy, cố gắng nhận diện vọng tâm để lấy vọng tâm làm vũ khí hủy diệt chính vọng tâm.
Khi gặp vấn đề phiền não, thay vì trách hoàn cảnh bên ngoài, quí vị nên trách vọng tâm chấp ngã, mang hết mọi vấn đề hoàn trả lại cho vọng tâm.
Phải liên tục thấy vọng tâm chấp ngã chính là kẻ thù độc hại nhất, cố gắng giữ mình xa lánh vọng tâm như xa lánh rắn độc.
Làm như vậy cho dù có gặp vấn đề gì đi nữa, dù to như quả địa cầu, nhiều như bão đá, tức khắc vấn đề sẽ không còn là vấn đề.
Đó là pháp chuyển tâm Đại thừa trọng yếu nhất: làm sao để vấn đề thôi không còn là vấn đề.
Quán Tưởng
Quán tưởng đấng Pháp Chủ – tướng mạo như trong tranh Phật (thangka) – trở thành một với tất cả mọi đấng đạo sư mà quí vị đã chọn nương theo (có nghĩa là những vị thầy mà quí vị đã chọn làm đạo sư và đã nhận pháp dưới danh nghĩa đạo sư đệ tử).
Trong khi tụng chú, dòng cam lồ ngũ sắc rót vào năm điểm khác nhau trên thân thể quí vị: sắc trắng từ trán, đỏ từ yết hầu (cuống họng), xanh dương từ trái tim, vàng từ bụng dưới, và xanh lá từ chỗ kín. Dòng cam lồ ngũ sắc này thanh tịnh năm
– Hộ Luân Kim Cang Giáp – Bánh Xe Hộ Trì : Áo Giáp Kim Cang – Lama Zopa Rinpoche soạn –
Loại phiền não, thanh tịnh mọi tập khí phiền não, mọi ác nghiệp do phiền não mà có, mọi mê muội, mọi ác nghiệp tích tụ từ vô lượng đời kiếp, mọi tật bịnh do long thần hay các loại tà ma ác quỉ tác hại.
Tất cả đều thoát ra ngoài từ các lỗ chân lông và các cửa dưới, dưới dạng nước đen bẩn như khi giặt tắm.
Tiếp theo, mọi tật bịnh -như bịnh ung thư hay các chứng bịnh ác hiểm khác mà quí vị đang phải chịu- đều thoát ra ngoài dưới dạng súc vật, rắn, ếch và các loài vật sống dưới biển.
Minh Chú Hộ Luân Kim Cang Giáp (Dorje Gotrab)
OM PEMA SHAWA RE HUNG PEH/ NEN PAR SHIG/ NAGA NEN/ TA YA THA/ SAWA/ BE RE TA/ HANA HANA/ VAJRA NA/ RAJA RAJA/ SOHA//
Tụng một tràng hạt 108 câu chú thì có 87 câu giúp thanh tịnh nghiệp chướng cho người tụng, 21 câu giúp thanh tịnh nghiệp chướng cho chúng sinh.
Còn một cách sám hối khác: nấu nước rồi cho vào bình hay hủ lớn (hay bất cứ vật chứa gì khác) để trước mặt, quán tưởng dòng cam lồ ngũ sắc phóng ra từ Áo Giáp Kim Cang (Kim Cang Giáp), tan nhập vào trong nước nấu. Thổi vào nước thêm một lần nữa. Khởi tâm tin chắc nước này bây giờ trở thành nước cam lồ của trí giác vô thượng và của tâm từ bi vô lượng thấu hiểu chúng sinh, mang đầy đủ khả năng thanh tịnh và hàng phục mọi tật bịnh -như chứng ung thư hay tất cả mọi ác bịnh nào khác mà quí vị đang có- cùng tất cả vọng tâm ô nhiễm.
Tụng xong một chuỗi hạt lại thổi vào nước. Cứ làm như vậy mỗi ngày bao nhiêu thời cũng được – ba hay bốn thời. Mỗi thời từ một đến một tiếng rưỡi đồng hồ hay là nhiều hơn, phải cố gắng tiếp tục sám hối như vậy, và gia trì cho nước.
Sau mỗi thời sám hối, tất cả ác nghiệp bịnh tật chất lại như núi quanh quí vị, che lấp hết cõi địa cầu. Dưới chỗ quí vị ngồi, đất nẻ chín tầng sâu. Diêm Vương hiện ra, mở miệng. Tất cả chui vào miệng Diêm Vương, biến thành nước cam lồ. Diêm Vương thỏa mãn hoàn toàn, chày vàng kim cang niêm kín miệng. Quay về chỗ ở của mình, rất xa nơi này, không hề trở lại. Đất khi nãy nẻ ra bây giờ khép lại liền lạc. Làm như vậy cũng là pháp quán trường thọ.
Hồi Hướng
Với công đức ba thời
của con và chúng sinh,
của chư Phật, Bồ Tát, nguyện cho bồ đề tâm
bây giờ chưa phát triển
sẽ nảy sinh lớn mạnh không bao giờ thoái chuyển
Nguyện mang thân ngữ ý cùng tất cả sở hữu
và công đức ba thời
cùng với mọi hạnh quả,
từ an lạc chí đến
quả vô thượng bồ đề, nguyện hồi hướng cả về chúng sinh cõi địa ngục cùng toàn thể chúng sinh.
Tất cả mọi nghiệp khổ
mà chúng sinh phải chịu nguyện đổ về nơi con.
Tất cả mọi công đức
mà con tích tụ được
nguyện hồi hướng chúng sinh.
Với công đức ba thời của con và chúng sinh, của chư Phật, Bồ Tát, nguyện mọi việc con làm không bao giờ gây hại
3
– Hộ Luân Kim Cang Giáp – Bánh Xe Hộ Trì : Áo Giáp Kim Cang – Lama Zopa Rinpoche soạn –
4
Nhỏ nhoi nào cho ai ngược lại tạo lợi ích cho tất cả mọi người.
Đời sống dù có là khổ đau hay hạnh phúc nguyện luôn làm nhân tố cho tất cả chúng sinh sớm đạt quả giác ngộ.
Với công đức ba thời của con và chúng sinh của chư Phật, Bồ Tát,
nguyện bao nhiêu chúng sinh đang chịu nhiều bịnh khổ, hoặc gặp chứng ung thư,
hoặc gặp chứng truyền nhiễm, hoặc đeo nặng ác nghiệp
phải chịu quả tật bịnh, những chúng sinh như vậy nguyện cùng được thoát hết, vĩnh viễn không bao giờ phải chịu cảnh ốm đau.
Với công đức ba thời
của con và chúng sinh, của chư Phật, Bồ Tát,
- thực chất chỉ là Không – nguyện cho bản thân con –
- thực chất chỉ là Không – đạt địa vị toàn giác của đạo sư pháp chủ
- thực chất chỉ là Không – nguyện cho con có thể dựa vào sức một người mà dẫn dắt chúng sinh
- thực chất chỉ là Không – mau chóng đạt giác ngộ
- thực chất chỉ là Không. Hành trì công phu này mỗi ngày ít nhất là một thời, hay nhiều hơn.
- Nhắp uống ba, bốn, hay năm ngụm nước đầy sau mỗi thời công phu, nghĩ rằng tất cả mọi chứng bịnh đều được thanh tịnh, và cả nguyên nhân của bịnh tật – là ác nghiệp vọng tâm và phiền
não – cũng đều được thanh tịnh.- Sau khi uống nước, hãy nghĩ rằng mình vừa nhận được trí toàn giác viên mãn, được tâm từ bi vô lượng bao trùm tất cả chúng sinh hữu tình, và được tất cả mọi tánh đức vô lượng của bậc chánh đẳng chánh giác.
Đây là một trong những câu minh chú có năng lực hóa giải nghiệp ung thư mãnh liệt nhất, và cũng thường được dùng để giải trừ các loại ác nghiệp bịnh khổ khác và giải nghiệp tà ma ám hại.- Nếu đọc minh chú này nhiều lần mỗi ngày, có thể có được khả năng chữa bịnh cho người khác.
- Đọc tụng minh chú này để gia trì cho nước, rồi dùng nước ấy cho người bịnh uống.
Lời ghi xuất xứ:
Nghi Thức này do Lama Thubten Zopa Rinpoche soạn tại Genting, Malaysia, tháng 04/1997. Ven. Jampa Ludrup đánh máy và sửa lại chút đỉnh.
Tháng 11/2005, Lama Thubten Zopa Rinpoche khuyên đệ tử khắp nơi nên hành trì công phu này để hồi hướng giải nghiệp truyền nhiễm cúm gà.
Hồng Như chuyển Việt ngữ tháng 01/2006.
Đọc lại 02/2006 – Đọc lại cuối tháng 2 có sửa chữa. Nếu quí vị thấy bản dịch có gì sai sót, xin liên lạc: hongnhu@gmail.com
Hạ tải bản Anh ngữ:
PROTECTION WHEEL VAJRA ARMOUR MEDITATION www.fpmt.org/teachers/zopa/advice/pdf/flu_vajraarm ourlong.pdf
Mọi sai sót là của người dịch. Mọi công đức xin hồi hướng pháp giới chúng sinh.
– Hộ Luân Kim Cang Giáp – Bánh Xe Hộ Trì : Áo Giáp Kim Cang – Lama Zopa Rinpoche soạn –
- Sau khi uống nước, hãy nghĩ rằng mình vừa nhận được trí toàn giác viên mãn, được tâm từ bi vô lượng bao trùm tất cả chúng sinh hữu tình, và được tất cả mọi tánh đức vô lượng của bậc chánh đẳng chánh giác.
Nguyên nhân gây bệnh.
Chào cả nhà, đang làm việc Tôi chợt nghĩ.
Bệnh từ 3 nguyên nhân:
1_ Do nội nhân: Tam độc, thất tình, lục dục sinh ra gọi là Nội thương.
2_ Do ngoại nhân Phong, Hàn ,Thử, Thấp, Táo, Nhiệt(lục dâm).
3_ Bất nội ngoại nhân, là không phải do hai nguyên nhân trên, do thú cắn, tai nạn…
Cổ Y chỉ nói 3 nguyên nhân gây ra bệnh cho con người.
4_ Nay vào Hạ nguyên năm Mậu Tuất, năm thứ 24. Bệnh còn gây ra bởi ăn, uống
Ăn gì sinh ra bệnh ? Là nguồn thực phẩm bẩn, biến đổi gen, bảo quản tồi…
Bệnh gây ra bởi thức uống không tự nhiên (nước tinh khiết loại bỏ vi khoáng), rượu có Alcool cao hơn tự nhiên (12%), nước có độ PH cao(8-9), chất kích thích.
Bệnh gây ra bởi ăn uống không đúng nhịp sinh học.
Điều tồi tệ uống một loại thuốc suốt vòng đời còn lại, phát sinh ra một loại bệnh mới do thuốc đó!!!(thuốc cao huyết áp, cao mỡ, cao đường, mất ngũ, nhức mỏi v.v….).
Các loại thuốc này được phát cho người bệnh thông qua B.S gia đình kèm một câu {uống thuốc suốt đời}😇.
Các cụ tổ Y sống tới bây giờ chắc ngạc nhiên sao mà nhiều nguyên nhân gây bệnh quá?
Ngày ba bữa vổ bụng rau bình bịch👋.
Cách để Khai mở các luân xa
Theo đức tin trong đạo Hindu và /hoặc đạo Phật, luân xa là các vùng năng lượng rộng lớn (nhưng còn khép kín) trong cơ thể, có chức năng điều khiển các thuộc tính tâm linh của chúng ta. Người ta cho rằng có tất cả bảy luân xa; bốn luân xa ở phần trên cơ thể điều khiển các đặc tính tinh thần, và ba luân xa ở phần dưới cơ thể, điều khiển các đặc tính bản năng. Đó là:
Luân xa Muladhara (gốc) Luân xa Svadhisthana (xương cùng) Luân xa Manipura (búi mặt trời) Luân xa Anahata (tim) Luân xa Visuddhi (cuống họng) Luân xa Ajna (con mắt thứ ba) Luân xa Sahasrara (vương miện)
Theo thuyết giảng trong đạo Phật/Hindu, mọi luân xa đều có tác động đến trạng thái khỏe mạnh và hạnh phúc của con người. Bản năng thường kết hợp với cảm giác và tư duy của chúng ta. Một số luân xa thường không được khai mở hết (tức là chúng chỉ hoạt động như khi chúng ta vừa mới chào đời), nhưng một số lại hoạt động quá mức, hoặc thậm chí gần như đóng kín. Nếu các luân xa không cân bằng, chúng ta sẽ không đạt được sự thư thái nội tại.
Bạn hãy đọc tiếp để khám phá nghệ thuật nhận thức về luân xa cũng như một phương pháp rất hữu hiệu nhằm khai mở chúng.
Các bước
Tỷ lệ vàng
Vận động cơ thể và nhận thức về nó. Tập yoga, đi bộ vòng quanh khu phố hoặc dọn dẹp nhà cửa. Các hoạt động này sẽ giúp bạn cảm nhận được cơ thể mình và tăng cường sức mạnh cho luân xa.
Tiếp đất. Điều này có nghĩa là bạn kết nối với mặt đất và cảm nhận nó dưới chân mình. Đứng thẳng và thả lỏng, hai chân giang rộng bằng vai và hơi chùng đầu gối. Di chuyển xương chậu ra phía trước một chút và giữ cơ thể thăng bằng sao cho trọng lượng phân phối đều dưới hai lòng bàn chân, sau đó hạ trọng tâm về phía trước. Giữ tư thế này trong vài phút.
Sau khi kết nối với mặt đất, bạn hãy ngồi xếp bằng như hình vẽ dưới đây.
Đầu ngón tay cái và ngón tay trỏ chạm vào nhau với động tác nhẹ nhàng.
Tập trung vào luân xa Gốc và ý nghĩa của nó, luân xa này nằm tại điểm giữa bộ phận sinh dục và hậu môn.
Lặp đi lặp lại âm “LAM”, nói khẽ nhưng rõ ràng.
Tiếp tục cho đến khi bạn hoàn toàn thư giãn. Điều này có thể đem lại cho bạn cảm giác “thanh sạch”.
Hình dung một đóa hoa màu đỏ còn khép. Tưởng tượng một nguồn năng lượng rất mạnh đang phát ra từ đó: đóa hoa đang nở ra với bốn cánh hoa tràn đầy năng lượng.
Siết chặt các cơ vùng đáy chậu, nín thở và thả lỏng.
Quỳ gối, giữ lưng thẳng nhưng thả lỏng.
Đặt hai tay trên đùi, tay này đặt lên tay kia, lòng bàn tay ngửa lên. Lòng bàn tay trái đặt bên dưới mặt ngoài các ngón tay của bàn tay phải, hai ngón tay cái chạm nhẹ vào nhau.
Tập trung vào luân xa Xương Cùng và ý nghĩa của nó, luân xa này nằm tại xương cùng (lưng dưới).
Lặp đi lặp lại âm “VAM”, nói khẽ nhưng rõ ràng.
Tiếp tục thực hành cho đến khi bạn hoàn toàn thư giãn. Lần này bạn cũng sẽ có cảm giác “thanh sạch”.
Quỳ gối, giữ lưng thẳng nhưng thả lỏng.
Đặt hai bàn tay trước bụng, hơi thấp hơn búi mặt trời một chút. Các đầu ngón tay chụm vào nhau và hướng ra xa người. Hai ngón cái bắt chéo nhau và duỗi các ngón tay (điều này là quan trọng).
Tập trung vào luân xa Rốn và ý nghĩa của nó, luân xa này nằm trên cột sống, cao hơn rốn một chút.
Lặp đi lặp lại âm “RAM”, nói khẽ nhưng rõ ràng.
Ngón cái và ngón trỏ của cả hai bàn tay chụm vào nhau.
Đặt bàn tay trái trên đầu gối trái và bàn tay phải lên ngực bên dưới xương ức.
Tập trung vào luân xa Tim và ý nghĩa của nó, luân xa này nằm trên cột sống, ngang mức tim.
Lặp đi lặp lại âm “YAM”, nói khẽ nhưng rõ ràng.
Các ngón tay của hai bàn tay đan vào nhau bên trong lòng bàn tay, trừ hai ngón cái. Hai đầu ngón tay cái chạm vào nhau và hướng lên trên một chút.
Tập trung vào luân xa Cuống Họng và ý nghĩa của nó; luân xa này nằm tại cuống họng.
Lặp đi lặp lại âm “HAM”, nói khẽ nhưng rõ ràng.
Tiếp tục thực hành trong khoảng 5 phút và cảm giác “thanh sạch” một lần nữa được nâng cao hơn.
Đặt hai bàn tay lên phần ngực dưới. Hai ngón tay giữa duỗi thẳng, đầu ngón tay chạm vào nhau, hướng ra ngoài cơ thể. Các ngón còn lại gập vào, hai đốt ngón tay trên cùng chạm vào nhau. Hai đầu ngón tay cái chạm vào nhau và hướng về phía thân mình.
Tập trung vào Con Mắt Thứ Ba và ý nghĩa của nó; luân xa này nằm giữa hai đầu chân mày và hơi cao hơn chân mày một chút.
Lặp đi lặp lại âm “OM”, nói khẽ nhưng rõ ràng.
Tiếp tục thực hành cho đến khi cảm giác “thanh sạch” dường như quay trở lại hoặc mạnh mẽ hơn.
Ngồi xếp bằng.
Đặt hai bàn tay lên bụng. Hai đầu ngón tay út chạm vào nhau, hướng lên và ra xa cơ thể, những ngón tay còn lại đan vào nhau, ngón cái bàn tay trái đặt bên dưới ngón cái bàn tay phải.
Tập trung vào luân xa Vương Miện và ý nghĩa của nó; luân xa này nằm trên đỉnh đầu.
Tư thế thiền này kéo dài lâu nhất, không ít hơn 10 phút.
CẢNH BÁO: không sử dụng tư thế thiền này cho luân xa Vương Miện nếu luân xa Gốc không mạnh hoặc chưa mở. Trước khi thực hành với luân xa cuối cùng, bạn cần phải có một “nền tảng” mạnh mẽ, và các bài tập cho luân xa gốc sẽ đem lại cho bạn điều này.
- Chữa bịnh Cà Lâm ( slurred speech )
Nói bị lập đi lập lại hoặc kéo dài một âm tiết. Do tâm và ý ngữ không đồng bộ.
Luận trị : Do Tâm và Ngữ ý so le ,Tâm đi trước Ý vậy ta đưa Tâm và ý ngữ hợp nhất bệnh nhân sẽ trở lại nói chuyện bình thường.
Dùng thuốc : Bình tâm thang.
Nhân Sâm 1 chỉ. ( Bổ khí dẫn những vị thuốc vào đúng vị trí làm việc )
Phục thần 5 chỉ. ( Định Thần )
Thần sa 3 phận ( Đã thuỷ phi ). ( An Hồn Phách, trấn Kinh , định Tâm.)
Hoàng Liên 5 phân. ( chân chim) ( phối cùng Quế di vào Tâm làm cho tâm thân giao nhau).
Nhục Quế 5 phân ( loại cực phẩm).( phối với Hoàng Liên…..)
Cửu tiết xương bồ 1 chỉ. ( Thông suốt cửu khiếu, nhờ vậy mà làm cho ngũ quan hợp nhất, Tâm Ý giao nhau, chứng nói lấp sẽ khỏi.
Đây là bài thuốc tham khảo các vị Lương y xem qua cho biết thêm ý kiến, chứ đây không phải là bài thuốc khuôn vàng thước ngọc.
Dùng châm cứu:
Châm cứu vào huyệt có hành dương Mộc ( ……………….).
Trích huyết vào huyệt Tâm Du ( kinh Bàng Quang ), hai bên.
Dùng thuật :
Dùng Ấn Chuẩn Đề đánh vào vùng huyệt Đại Chuỳ, Tâm Du (2 bên), ba huyệt này tạo thành một tam giác, đỉnh là huyệt Đại chuỳ, Cạnh Huyền là điểm nối hai huyệt Tâm Du trái phải với nhau.
Bài viết này tác giả có chửa thành công , xin các Lương Y tham khảo và bổ túc.
Bệnh do Sán, Trùng.