BÁN HẠ
Vần | Tên | |
B | BÁN HẠ | BÁN HẠ (Rhizoma Pinelliae Ternatae) Bán hạ dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản kinh là thân rễ phơi hay sấy khô của nhiều loại Bán hạ khác nhau đều thuộc họ Ráy (Araceae). Bán hạ Trung quốc có tên thực vật học là Pinellia ternata (Thunb) Breiter hay Pinellia tuberifera Tenore. Bán hạ Việt nam gồm những cây Typhonium divancatum L. Arum trilobatum (Lour), Typhonium trilobatum (Schott). Cây Bán hạ Trung quốc mọc khắp nước Trung quốc từ Bắc chí nam, nhiều nhất dọc các tỉnh dọc lưu vực sông Trường giang như Tứ xuyên, Hồ bắc, Giang tô. Cây Bán hạ Việt nam cũng mọc khắp nơi trong nước, còn mọc tại các nước Aán độ, Campuchia, Lào, Indonexia, Malaxia, Nam Trung quốc, Nhật bản. Cây Bán hạ đào nhổ về, bỏ vỏ ngoài và rễ con, rửa sạch, phơi khô là Bán hạ sống (sinh Bán hạ), Bán hạ sống có độc phải bào chế mới dùng. |
MÔ TẢ DƯỢC LIỆU-TÍNH VỊ-QUY KINH | Các cách bào chế: Bán hạ sống ngâm nước cho đến khi cắn chỉ có vị hơi tê cay rồi bỏ vào chỏ nấu với gừng tươi và Bạch phàn cho đến nước trong lấy ra phơi chỗ râm (âm can) cho khô cắt lát gọi là Khương Bán hạ. Cứ 1 kg Bán hạ cho thêm 50g phèn chua và 300g gừng tươi giã nhỏ, thêm nước vào cho ngập, ngâm trong 24 giờ lấy ra rửa sạch, đồ cho chín thái mỏng. Lại tẩm nước gừng (cứ 1kg Bán hạ thêm 150g gừng tươi giã nát thêm ít nước), vắt lấy nước cho Bán hạ vào ngâm 1 đêm, lấy ra sao vàng để dùng. Nếu sinh Bán hạ sau khi ngâm như Khương Bán hạ, cho vào nước sắc Cam thảo và Thạch Khôi trộn đều, ngâm cho đến khi không còn ruột trắng, phơi khô chỗ râm (âm can) gọi là Pháp Bán hạ. Lấy sinh Bán hạ ngâm cho đến khi cho vào miệng không thấy tê cay nữa, phơi khô (âm can) rồi nấu với Bạch phàn, cắt lát phơi khô là Thanh Bán hạ. Lấy Pháp Bán hạ tẩm Trúc lịch âm can gọi là Trúc lịch Bán hạ. Lấy Bán hạ sống đã ngâm và phơi khô tán thành bột mịn trộn với nước gừng và bột mì cho đều để lên men chế thành Bán hạ khúc. Tính vị qui kinh: Bán hạ vị cay ấm có độc, qui kinh Tỳ Vị Phế. Theo các sách thuốc cổ: Sách Bản kinh: Cay bình. Sách Danh y biệt lục: sống: hơi hàn; chín: có độc. Sách Dược tính bản thảo: rất độc (hữu đại độc). Sách Lôi công bào chế dược tính giải: nhập 3 kinh Phế Tỳ Vị. Sách Bản thảo hội ngôn: nhập thủ dương minh, thái âm, thiếu âm kinh. Sách Bản thảo kinh sơ: nhập túc thái âm, dương minh, thiếu dương, thủ thiếu âm kinh. Thành phần chủ yếu: Coniine, protoanemonin, homogentisic acid, nicotine, aspartic acid, glutamic acid, arginine, beta-sitosterol, cholesterol. Theo sách Trung dược học: Bán hạ có alkaloid, cholesterol thực vật, nhiều loại amino acid, saponin, protein Bán hạ 1, chất kích thích. Bán hạ Trung quốc, theo Lý Thừa Cố(1960, Trung quốc dược dụng thực vật đồ giám) có ít tinh dầu 0,003 – 0,013%, một chất alkaloid, ancol, chất cay, phytosterol, dầu béo, tinh bột, chất nhày. | |
CÔNG DỤNG-LIỀU DÙNG | Tác dụng dược lý: A.Theo Y học cổ truyền: Bán hạ có tác dụng: táo thấp hóa đàm, giáng nghịch cầm nôn (chỉ ẩu), tiêu bỉ tán kết. Chủ trị các chứng: thấp đàm, hàn đàm thượng xung gây động phong, đàm trọc hung tý, hàn ẩm ẩu thổ, vị hư ẩu thổ, vị nhiệt ẩu thổ, nhâm thần ẩu thổ (nôn thai nghén), chứng kết hung, mai bạch khí (chứng đau đầu tức ngực, chứng như vướng ở họng lúc nuốt), chứng anh lựu đàm hạch, ung thư thũng độc. Trích đoạn Y văn cổ: Sách Bản kinh: ” Chủ thương hàn hàn nhiệt, tâm hạ kiên, hạ khí, cổ họng sưng đau, váng đầu, ngực đầy, khái nghịch, tràng minh (sôi bụng), cầm mồ hôi (chỉ hãn)”. Sách Danh y biệt lục: ” tiêu tâm phúc hung cách đàm nhiệt mãn kết, khái thấu thượng khí, tâm hạ cấp thống, kiên bỉ, thời khí ẩu nghịch, tiêu ung thũng”. Sách dược tính bản thảo: ” tiêu viêm, hạ phế khí, khai vị kiện tỳ, chỉ ẩu thổ, khứ hung trung đàm mãn, sinh giả, ma ung thũng, trừ lựu anh khí”. Sách Trân châu nang: ” trị ho do hàn đàm và ăn sống lạnh làm tổn thương phế, tiêu hung trung bĩ, cách thượng đàm, trừ hung hàn, hòa vị khí, táo tỳ thấp, trị đàm quyết đầu thống, tiêu thũng tán kết”. Sách Bản kinh phùng nguyên: ” Bán hạ cùng dùng với Thương truật, Phục linh trị thấp đàm. Dùng với Qua lâu, Hoàng cầm trị nhiệt đàm. Dùng với Nam tinh, Tiền hồ trị phong đàm. Dùng với Giới tử, Khương trấp (nước gừng) trị hàn đàm, chỉ có táo đàm nên dùng Qua lâu, Bối mẫu chứ không dùng Bán hạ để trị”. B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại: Thành phần độc của Bán hạ khó hòa tan trong nước, còn thành phần có tác dụng cầm nôn và giảm ho có thể hòa tan vào nước nóng. Thành phần có độc không bị phá hủy bởi nước gừng đơn độc mà bị Bạch phàn làm hết độc. Bán hạ chế thành hoàn và nước sắc Bán hạ có tác dụng cầm nôn. Cao lỏng Bán hạ, bột Bán hạ (đã được chế với nhiệt độ cao) cũng có tác dụng cầm nôn. Nhưng Bán hạ sống ngược lại có tác dụng gây nôn. Nước sắc Bán hạ cho mèo được gây ho nhân tạo uống có tác dụng giảm ho nhưng kém codein. Thuốc cũng có tác dụng giảm ho nếu chích tĩnh mạch. Chế phẩm của Bán hạ cho thỏ uống làm giảm bớt tiết nước bọt do pilocarpine. Chế phẩm của thuốc cho chuột cống được gây bụi phổi (pneumosilicosis) uống, kết quả phân tích tế bào chứng minh thuốc có tác dụng làm chậm quá trình bệnh, cho thuốc càng sớm càng có kết quả tốt. Bán hạ có tác dụng giải độc (antidotal) đối với nhiễm độc strychnine và acetylcholin. Protein Bán hạ với liều 30mg/kg đối với chuột nhắt có tác dụng chống có thai sớm (tảo dựng). Thuốc ngâm kiệt Bán hạ sống có tác dụng chống rối loạn nhịp tim trên súc vật thực nghiệm. Cồn loãng hay nước ngâm kiệt Chưởng diệp Bán hạ (pinellia pedatisect Schott) có tác dụng ức chế rõ rệt đối với ung thư và tế bào Hela trên súc vật thí nghiệm. Độc tính: Liều LD50 của Bán hạ sống chích màng bụng đối với chuột là 13g/kg. Bán hạ sống uống quá liều dễ ngộ độc. Ăn Bán hạ sống mồm lưỡi có cảm giác tê chích. Liều lớn gây cho mồm họng cảm giác tê cay mạnh ngứa, nóng bỏng, sưng, tiết nước bọt, buồn nôn, nói không rõ, khàn giọng, há mồm khó, trường hợp nặng sẽ ngạt thở, khó thở dẫn tới tử vong. Ứng dụng lâm sàng: 1.Trị ung thư cổ tử cung: dùng loại Chưởng diệp Bán hạ (Rhizoma pinelliae pedatisectae) chế thành lát mỏng (ngày 3 lần tổng liều 60g Bán hạ sống hoặc viên đạn (mỗi viên 50g, ngày đặt vào cổ tử cung 1 lần), viên thỏi (mỗi thỏi có 5 – 7,5g thuốc sống, nhét vào cổ tử cung ngày 1 lần). Đã trị ung thư cổ tử cung gồm các giai đoạn 247 ca, kết quả khoiû trước mắt 63 ca, kết quả tiến bộ tốt 84 ca, có kết quả 44 ca, tỷ lệ có kết quả chung 77,33% (báo cáo của Bệnh viện Phụ sản trực thuộc Học viện Thượng hải số 1, Báo Y học Thượng hải 1978,1:13). 2.Trị nôn thai nghén: dùng bột Sơn dược uống và Thanh Bán hạ mỗi thứ 30g, dùng lửa nhỏ (văn hỏa), sắc Bán hạ 45 phút, bỏ xác cho bột Sơn dược vào đun sôi 3 – 4 lần rồi cho đường đủ ngọt, ngày uống 1 thang, sau đó tùy chứng gia thuốc. Đã trị 18 ca đều khỏi (Trần Triệu, Trung y tạp chí Giang tô 1987,3:16). 3.Trị lóet cổ tử cung: lấy Bán hạ sống nghiền bột rây, lúc dùng lấy miếng bông có cột sợi chỉ tẩm thuốc đặt vào chỗ đau áp sát vào chỗ lóet, 24 giờ sau tự lấy ra, mỗi tuần 1 – 2 lần, 8 lần là 1 liệu trình. Đã theo dõi 1347 ca, tỷ lệ có kết quả là 97,18%, tỷ lệ khỏi 44,77% (Hồ khanh Phát, Báo Trung Y Thiểm tây,1984,5:14). 4.Trị viêm tuyến vú cấp: dùng Bán hạ tươi rửa sạch bỏ vỏ ngoài, mỗi lần nhét vào lỗ mũi cùng bên hoặc khác bên vú đau trong 1 – 2 giờ, ngày 1 lần. Theo dõi 40 ca, kết quả khỏi 36 ca, tỷ lệ khỏi 90% (Ngô Thanh Thiện, Học báo của Học viện Trung y An huy 1984, 2: bìa 4). 5.Trị viêm hạch lâm ba cổ mạn tính: dùng Bán hạ 50g sấy khô tán bột mịn dùng. Lấy bột Bán hạ sống 3 phần, bột mì 1 phần trộn đều, cho thêm nửa thìa dấm lâu năm và nước sôi trộn đều, mỗi tối một lần đắp vùng viêm sáng lấy ra, 5 – 7 lần là một liệu trình. Đã theo dõi 30 ca, kết quả tốt (Lý hóan Hoa, Báo Y học đại chúng 1984,8:43). 6.Trị ho trong chứng cảm phong hàn: Nhị trần thang (Hòa tễ cục phương): Chế Bán hạ, Phục linh, Trần bì đều 10g, Cam thảo 3g, sắc nước uống. 7.Trị chứng rối loạn tiêu hóa: bụng đầy tức, sôi bụng, nôn tiêu chảy. Bán hạ tả tâm thang (Thương hàn luận): Bán hạ chế 10g, Can khương 5g, Hoàng cầm 10g, Hoàng liên 3g, Đảng sâm 10g, Chích thảo 3g, Đại táo 3 quả sắc uống. 8.Giới thiệu kinh nghiệm dùng Bán hạ sống: Nghiêm Đức Thanh cho rằng sách Thương hàn luận có 43 bài thuốc dùng Bán hạ trong đó 37 bài thuốc uống, 6 bài dùng ngoài đều dùng Bán hạ sống không nói đến bào chế. Các y gia đời sau thấy Bán hạ táo là có độc nên mới chế Bán hạ. Chế có giảm độc nhưng hiệu lực của thuốc cũng giảm. Độc tính của Bán hạ đun nóng cũng mất nhiều nên chủ trương sắc Bán hạ lâu, khoảng 30 phút và thêm Gừng tươi, nên dùng thuốc cần chú ý phối ngũ (Vương kiến Dũng, Tạp chí Trung y Triết giang 1985,5:196). Liều lượng thường dùng và chú ý: Liều: 5 – 10g sắc uống hoặc cho vào thuốc hoàn, tán. Dùng ngoài lượng vừa đủ, nhưng cũng có học giả lúc cần dùng đến 60g. Thầy thuốc ôn bệnh Ngô Cúc Thông có câu: ” Chất lượng giáng nghịch, nhị lượng an miên”. Tùy từng loại Bán hạ chế mà chọn dùng đối với bệnh thích hợp: + Thanh Bán hạ: bớt táo cay chuyên hóa thấp đàm nên dùng cho bệnh nhân cơ thể hư nhược đàm nhiều, hoặc trẻ em thực tích đàm trệ, bệnh nhẹ. + Pháp Bán hạ: chuyên táo thấp hòa vị, dùng tốt cho bệnh nhân tỳ hư thấp trệ, tỳ vị bất hòa. + Trúc lịch Bán hạ: tính ôn táo giảm rất nhiều, dùng tốt cho chứng nôn do vị nhiệt hoặc do phế nhiệt do đàm vàng dính hoặc chứng hóa thấp kiện tỳ, tiêu thực chỉ tả, nên dùng trị chứng tỳ vị hư nhược thấp trở thực trệ. Bán hạ phản Ô đầu, không nên dùng chung. Cấp cứu trúng độc Bán hạ: Ngoài việc theo các nguyên tắc cấp cứu nhiễm độc thuốc, có thể dùng 1 – 2% tannic acid rửa bao tử, cho uống lòng trắng trứng gà, giấm loãng hoặc nước chè (trà) đậm. Cũng có thể dùng giấm loãng 30 – 60ml gia ít nước gừng uống hoặc ngậm nuốt từ từ. Cũng có thể dùng gừng tươi gia đường sắc uống. Kết hợp các phương pháp cấp cứu triệu chứng. | |
NHỮNG PHƯƠNG GIẢN DỊ MÀ HIỆU QUẢ |