Châm Cứu,  Châm Cứu Lục Khí.,  Cho Phương tri và cho Pháp trị,  Dịch,  Dưỡng sinh,  Lục Vận Lục Khí,  Mạch,  Ngũ vận luc khí,  Tản mạn,  Vi Sinh

Cho Phương và Cho Pháp trong y học Đông Y .

Cụ Tổ Hải thượng Lãn ông có viết :

Cho Phương thuốc trị bệnh thì cứu được một người.

Cho Pháp trị bệnh thì cứu được vạn người.

Lương y sau khi khám bệnh cho bệnh nhân. ( Tứ Chẩn, Bát cương. )

BÁT CƯƠNG

ĐịNH NGHĩA: Bát cương là 8 cương lĩnh gồm 8 hội chứng lớn nhằm mô tả các mức độ, các trạng thái, các giai đoạn của một bệnh cảnh lâm sàng. Bát cương bao gồm 4 cặp sau đây:Biểu – Lý, Hàn – Nhiệt, Hư – Thực, Âm – Dương.  Âm và Dương là hai cương lĩnh tổng quát nhất được gọi là Tổng cương. NỘI DUNG: 1. Biểu – Lý Biểu và lý là 2 cương lĩnh để tìm vị trí nông sâu của bệnh tật, đánh giá tiên lượng và đề ra các phương pháp chữa bệnh thích hợp (bệnh ở biểu thì phát tán, bệnh ở lý thì dùng phép Thanh, Ôn, Bổ … Biểu chứng Biểu chứng là bệnh còn ở bên ngoài, ở nông, thường xuất hiện tại gân, xương, cơ nhục, kinh lạc. Bệnh ngoại cảm và bệnh truyền nhiễm ở giai đoạn đầu (YHCT gọi là phần Vệ, Tây y gọi là giai đoạn viêm long, khởi phát).Các biểu hiện lâm sàng: Phát sốt, sợ gió, sợ lạnh,Rêu lưỡi trắng, mỏng, mạch phù, đau đầu, đau mình, ngạt mũi, ho Lý chứng là bệnh ở bên trong, ở sâu thường là bệnh thuộc các tạng phủ, bệnh truyền nhiễm ở các giai đoạn toàn phát và có biến chứng như mất nước, mất điện giải, chảy máu (YHCT gọi là phần Dinh, Khí, Huyết) .Các biểu hiện lâm sàng: Sốt cao, khát, mê sảng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, nước tiểu đỏ, nôn mữa, đau bụng, táo hay tiêu chảy, mạch trầm … Bệnh ở Lý có thể từ ngoài truyền vào, có thể tà khí trúng ngay tạng phủ, do tình chí làm rối loạn hoạt động các tạng phủ. Sự phân biệt giữa Biểu chứng hay Lý chứng thường chú ý đến có sốt cao hay sốt kèm theo sợ lạnh, chất lưỡi đỏ hay nhạt, rêu lưỡi vàng hay trắng, mạch phù hay mạch trầm …Biểu và Lý còn kết hợp với các cương lĩnh khác nhau như: Hư thực, hàn, nhiệt và có sự lẫn lộn giữa biểu và lý.   2. Hàn – Nhiệt Hàn và Nhiệt là 2 cương lĩnh dùng để đánh giá tính chất của bệnh giúp cho người thầy thuốc chẩn đoán các loại hình của bệnh và đề ra phương pháp chữa bệnh hợp lý (bệnh Hàn dùng thuốc Nhiệt, bệnh Nhiệt dùng thuốc Hàn; Nhiệt thì châm, Hàn thì cứu).Hàn chứngSợ lạnh thích ấm, miệng nhạt không khát, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng trơn ướt, mạch trầm trì. Nhiệt chứngSốt, thích mát, mặt đỏ, mắt đỏ, tay chân nóng, tiểu tiện ngắn đỏ, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô, mạch sác.Sự phân biệt hàn chứng và nhiệt chứng tập trung vào: sốt sợ nóng hay lạnh, thích ấm, khát hay không khát; Sắc mặt đỏ hay trắng xanh; Tay chân nóng hay lạnh; Tiểu tiện đỏ ít hay trong dài; Đại tiện táo khô hay tiêu chảy; Rêu lưỡi vàng hay trắng, mạch trì hay sác.Hàn chứng thuộc âm thịnh và Nhiệt chứng thuộc Dương thịnh. Hàn nhiệt còn phối hợp các cương lĩnh khác, lẫn lộn với nhau, thực giả lẫn nhau.  3. Hư – Thực Hư và thực là 2 cương lĩnh dùng để đánh giá trạng thái người bệnh và tác nhân gây bệnh, để người thầy thuốc thực hiện nguyên tắc chữa bệnh: Hư thì bổ; Thực thì tả.Hư chứngHư chứng là biểu hiện  chính khí suy nhược và sự phản ứng của cơ thể đối với tác nhân gây bệnh giảm sút. Chính khí của cơ thể có 4 mặt chính là âm, Dương, Khí, Huyết nên trên lâm sàng có những hiện tượng như: âm hư, Dương hư, Khí hư và Huyết hư. Những biểu hiện chính trên lâm sàng: tinh thần yếu đuối, sắc mặt trắng bệch, người mệt mỏi không có sức, gầy, hồi hộp, thở ngắn, tự ra mồ hôi hay mồ hôi trộm, đi tiểu luôn hay không tự chủ, chất lưỡi nhạt, mạch tế nhược …  Thực chứngThực chứng là do cảm phải ngoại tà hay do khí trệ, huyết ứ, đàm tích, ứ nước, giun sán gây ra bệnh. Các biểu hiện chính trên lâm sàng: Tiếng thở thô mạnh, phiền táo, ngực bụng đầy trướng, đau cự án, táo, mót rặn, bí tiểu, tiểu buốt, tiểu gắt, rêu lưỡi vàng, mạch thực hữu lực.Sự phân biệt hư chứng và thực chứng căn cứ vào mấy điểm sau: Bệnh cũ hay bệnh mới; Tiếng nói, hơi thở nhỏ hay to; Đau cự án hay thiện án; Chất lưỡi dày cộm hay mềm bệu; Mạch vô lực hay hữu lực.Hư thực còn phối hợp với các cương lĩnh khác lẫn lộn với nhau và thực giả lẫn nhau. 4. Âm – Dương Âm chứng và Dương chứng: âm chứng thường bao gồm các chứng hư và hàn; Dương chứng gồm các chứng thực và nhiệt. Âm hư và Dương hưÂm hư do tân dịch, huyết không đầy đủ, phần Dương trong cơ thể nhân âm hư, nổi lên sinh ra chứng Hư nhiệt gọi là “âm hư sinh nội nhiệt”.Dương hư là do công năng trong người bị giảm sút, Dương khí không ra ngoài, phần Vệ bị ảnh hưởng nên sinh chứng sợ lạnh, tay chân lạnh gọi là “Dương hư sinh ngoại hàn”. 

Điều đầu tiên là phải có Pháp trị ( Bát Pháp )

BÁT PHÁP

Bát Pháp là 8 cách chữa bệnh gồm : Hãn (làm cho ra mồ hôi), Thổ (làm cho nôn ra), Hạ (làm cho xổ), Thanh (làm cho mát), Ôn (làm cho ấm), Tiêu (làm cho tiêu mòn), Hòa (làm cho điều hòa cơ thể), Bổ (làm cho bổ).

Tùy theo bệnh tật đã được xác định, chẩn đoán (ở đâu, nguyên nhân nào, thuộc hội chứng gì…), chọn dùng cách này hay cách khác hoặc phối hợp 2, 3 cách với nhau để chữa trị.

Về thuốc, mỗi phương pháp của Bát Pháp đều có bài thuốc đặc hiệu có công dụng cao (do công lao thừa kế của hàng ngàn năm kinh nghiệm của người xưa). Nhưng về mặt châm cứu, còn nhiều phức tạp trong việc áp dụng cách thức thủ thuật châm… Tuy nhiên, trong mỗi phương pháp châm cứu, vẫn có thể đạt được kết quả tốt nếu thực hiện đúng quy tắc thao tác và chọn huyệt.

1. HÃN PHÁP (làm cho ra mồ hôi)

Đại cương: 1 bệnh sốt, khi ra được mồ hôi, sốt tự lui, do đó người xưa đã vận dụng và tạo ra Hãn Pháp để chữa bệnh. Mục đích làm ta mồ hôi để tà khí theo mồ hôi thoát ra ngoài.

Áp dụng lâm sàng: Thường dùng chữa bệnh ở Biểu, tà khí còn ở phần Biểu.

Theo cách nhìn của YHCT, Hãn pháp không chỉ dùng để làm cho ra mồ hôi mà hễ muốn khu trục Biểu tà, làm cho khí huyết lưu thông đều có thể dùng Hãn pháp, do đó không nên nhìn 1 cách hạn hẹp rằng Hãn pháp chỉ dùng để làm cho ra mồ hôi.

Trên lâm sàng có thể dùng nhiều cách : Thuốc uống, châm cứu, xông…

a) Thuốc:

– Dùng thuốc Tân ôn ( cay ấm) để ra mồ hôi, dùng trong chứng Biểu Hàn.

– Dùng thuốc Tân Lương (cay mát), trong chứng Biểu

c) Ngoại khoa:

Trong dân gian thường dùng nồi xông hoặc cháo giải cảm, có hiệu quả phát hãn rất cao và an toàn.

Nồi xông cũng được dùng trong chứng Phù (thủy thũng) mãn tính để thúc đẩy bài trừ chất nước.

Chỉ định

– Chỉ dùng chữa bệnh mà tà khí còn ở Biểu.

– Thiên ‘Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận’ ghi : “Tà khí còn ở bì mao thời làm cho hãn phát tán đi” và “mình nóng như than đốt, nên phát hãn”.

Chống chỉ định (Contraindication) :

– Người mất nhiều tân dịch (tiêu chảy, nôn nhiều), mất nhiều máu, không được dùng.

– Khi Biểu tà đã giải, cần ngưng ngay.

– Mùa hè nóng nực, không nên làm cho ra mồ hôi nhiều quá.

– Không nên cùng lúc cho uống nhiều loại thuốc phát hãn, đắp nhiều chăn, làm cho mồ hôi tiết ra nhiều quá, hại đến nguyên khí, gây vong dương.

– Cần nắm 4 không : không hoãn, không cấp, không nhiều, không ít.

Vì Hoãn và Cấp không thể đẩy lui được tà khí ra, nhiều quá thì gây vong dương, ít quá thì tà khí ra không hết, không hết bệnh.

– Người hư yếu, khi muốn phát hãn, luôn luôn phải bổ thêm.

Chú ý: Cần linh hoạt khi áp dụng phép hãn : “Phát hãn làm cho các lỗ chân lông nở ra, tà khí theo mồ hôi mà ra, do đó nên dùng những vị thuốc nào chỉ làm cho tà khí theo chân lông ra dần dần, mà không làm tổn thương trung khí và tân dịch.

Thí dụ : Trong sách “Thương Hàn Luận”, Trương Trọng Cảnh dùng bài “Ma Hoàng Quế Chi”, nhiều người dùng các loại Bạc hà, Kinh giới và thêm các vị Táo như Khương hoạt, Độc hoạt, Bạch chỉ… để phát hãn. Việc cho thêm thuốc Táo, tuy cũng có tác dụng phát hãn nhưng chỉ để chữa Hàn thấp chứ không thể chữa được Thương hàn ôn bệnh. Vì phong hỏa đốt bên trong, ngoài lại dùng thuốc Táo, thì mồ hôi không thể ra được thì tà khí không có chỗ dựa để ra. Tà khí đã không ra còn dùng thuốc Táo làm rối loạn chính khí, tổn thương tân dịch, sinh ra biến chứng.

Do đó cần cẩn thận khi dùng thuốc.

2. THANH PHÁP (Làm Cho Mát)

Đại cương: Có những chứng nóng lâu ngày, quá nóng, phải dùng thuốc mát mới làm hạ được, vì thế người xưa đề ra Thanh pháp.

Áp dụng: Dùng để chữa những bệnh ôn nhiệt xâm nhập vào cơ thể làm khô ráo tân dịch.

– Thuốc : Tùy theo mức độ nặng nhẹ của bệnh và vị trí của Nhiệt tà mà dùng thuốc:

*
Thanh lương (Thanh nhiệt, Lương huyết), dùng thuốc vị cay, tính mát, để thanh, nhiệt như : Thạch cao, Lá tre, Tri mẫu… dùng trong trường hợp sốt cao.
*
Dùng thuốc vị đắng, tính lạnh để tả hỏa như Hoàng Liên…
*
Dùng thuốc có tác dụng lương huyết để giải nhiệt như : Sinh địa, Huyền sâm… loại thuốc này còn được gọi là thuốc “Tư dưỡng” vì ngoài tác dụng thanh huyết, hạ nhiệt, còn có tác dụng bổ dưỡng.

– Châm cứu :

Chống chỉ định:

*
Chứng chân hàn giả nhiệt, không được dùng.
*
Người thể chất hư hàn, phụ nữ mới sinh, không được dùng.

3. ÔN PHÁP (Làm Ấm)

Đại cương: Khi dùng các thuốc cay, nóng thường gây kích thích, làm ấm người… Người xưa qua kinh nghiệm điều trị hàn chứng đã dùng Ôn pháp, do đó, Ôn pháp bắt nguồn từ việc chữa hàn chứng.

Áp dụng lâm sàng: Ôn pháp được dùng để :

*
Chữa những bệnh Hàn chứng.
*
Chứng bệnh do dương khí suy.

Trên lâm sàng thường được chỉ định dùng trong :

1. Hồi dương cứu nghịch: Để cấp cứu những bệnh do hán tà trúng thẳng vào lý (bụng đau do lạnh, ngất, trụy mạch).

+ Về thuốc : Dùng các vị thuốc tính nóng, mạnh như bài Tứ Nghịch Thang (Phụ tử, Can khương, Cam thảo) hoặc Sâm Phụ Thang (Nhân sâm, Phụ tử).

2. Ôn dương Trừ hàn: Khôi phục lại sức hưng phấn để khu trục hàn tà (trị hàn tà xâm nhập vào kinh lạc làm chân tay sưng đau nhức… ban ngày nặng, ban đêm nhẹ hoặc ngược lại).

+ Về thuốc : Dùng các vị thuốc ấm, thường dùng bài “Lý Trung Thang” (Nhân sâm, Bạch truật, Cam thảo, Can khương).

+

– Chú ý : Chỉ được dùng khi bệnh thuộc Thực hàn, do đó cần đề phòng hiện tượng giả hàn mà bệnh là Thực nhiệt (chân nhiệt giả hàn).

4. THỒ PHÁP (làm cho nôn)

Đại cương: Trong thực tế, khi ăn phải thức ăn độc hoặc không thích hợp, cơ thể tạo ra phản ứng tống độc chất ra ngoài bằng nôn mửa. Kinh nghiệm cho thấy : khi nôn ra được thì nhẹ, vì thế người xưa đã đề ra Thổ pháp, vận dụng hiện tượng trên trong chữa bệnh.

Áp dụng:

+ Thường dùng trong những ngộ độc thức ăn cấp, độc còn ở bao tử. Thiên “Âm Dương Ưùng Tượng Đại Luận” (TVấn 5) ghi : “Bệnh ở trên cao, nhân cái cao ấy mà làm cho nó vọt ra”, ý nói là khi bệnh còn ở phần trên hông, ngực, bao tử, dùng thổ pháp để đẩy ra.

+ Hoặc đờm dãi làm nghẽn đường hô hấp.

Về thuốc:

– Dùng những vị thuốc có mùi tanh, vị đắng : Cuống dưa đá (Qua đế tán), muối ăn, Thường sơn…

– Hoặc có thể ngoáy, móc họng cho gây nôn.

Châm tả Nội quan sao cho cảm giác lên đến nách. Châm tả tiếp huyệt Trung quản, dùng ngón tay vuốt từ kim lên ngực nhiều lần cho cảm giác đi lên ngực. Dùng ngón tay ấn và day mạnh huyệt Thiên đột cho buồn nôn. Khi đã buồn nôn nhiều, rút kim ở huyệt Trung quản ra cho nôn. Nếu nôn chưa được, hỗ trợ bằng cách ngoáy họng.

Chú ý : Người suy nhược, già yếu, có thai hoặc mới sinh, hư suyễn và bệnh phổi, không nên cho nôn.

5. HẠ PHÁP (làm cho hạ, gây đi thông tiện)

Đại cương: Độc khí ở trong người gây khó chịu, hễ đẩy ra ngoài được thì thấy dễ chịu, người xưa theo cách đó chế ra phép hạ.

Áp dụng: Được dùng trong các trường hợp bệnh tà ở trường vị như táo bón, huyết ứ, đờm, nước ngưng kết, nóng quá, để tà khí theo phân ra ngoài.

Về thuốc: có thể dùng Đại hoàng, Mang tiêu, vỏ cây đại, Ba đậu… có thể chia ra :

+ Hàn hạ : dùng thuốc hàn để xổ : Đại hoàng.

+ Ôn hạ : dùng thuốc ôn để xổ : Ba đậu.

Chú ý :

– Không hạ khi tà còn ở Biểu, hoặc đã vào Lý mà chưa kết tụ.

– Không hạ đối với người yếu, người có thai, sau khi đẻ, sau khi mất máu.

– Khi xổ, cần chú ý đến bệnh tình để xác định mức độ xổ nhẹ hoặc mạnh.

6. HÒA PHÁP (Điều Hòa Cơ Thể)

Đại cương: Mục đích để điều hòa cơ thể, phù chính khu tà. Phạm vi sử dụng rộng rãi hơn các phương pháp khác. Những bệnh không cần làm cho ra mồ hôi, làm nôn, làm đi đại tiện, bổ hay tả đều có thể dùng phép Hòa. Là 1 cách giải nhiệt nhưng không làm ra mồ hôi.

Áp dụng: Dùng để chữa :

*
Các bệnh ở phần Bán biểu bán lý.
*
Bệnh do Can thực mà Tỳ vị hư.
*
Bệnh nóng trên lạnh dưới hoặc ngược lại.

– Về thuốc : thường dùng bài “Tiểu Sài Hồ” (Sài hồ, Nhân sâm, Cam thảo, Hoàng cầm, Đại táo, Bán hạ, Sinh khương).

– Về châm cứu : chọn huyệt châm tùy theo bệnh :

+ Bệnh do Can thực mà Tỳ vị hư : Bình c

Chú ý :

+ Không dùng Hòa pháp khi tà khí đang còn ở Biểu hoặc đã vào lý.

+ Không dùng trong trường hợp có hiện tượng khát nước, nói mê, táo bón.

7. TIÊU PHÁP (Làm Cho Tiêu)

Đại cương: Có 1 số trường hợp không thể nào làm cho ra được như các vật cứng, vật kết lại hoặc do cơ thể quá yếu, không thể đẩy ra ngay 1 lúc, cần phải làm cho nó mòn hoặc tiêu dần, do đó người xưa đề ra tiêu pháp để chữa bệnh. Phép tiêu tương tự như phép hạ nhưng không mãnh liệt và gấp rút như phép hạ, mà nó làm tiêu dần dần, nên thường được dùng trong các bệnh mãn tính.

Áp dụng: Vì đối tượng để tiêu không giống nhau, nên phải tùy từng trường hợp mà áp dụng :

– Tiêu thức ăn : dùng Sơn tra, Mạch nha…

– Tiêu đàm dùng Bán hạ, Trần bì…

– Thông khí dùng Chỉ xác, Hương phụ…

– Hành huyết dùng Hồng hoa, Nga truật…

– Làm tiêu thủy dùng Mộc thông, Mã đề…..

Cách châm :

+ Bệnh có Tích kết, phải châm sâu, châm tả và lưu kim lâu.

+ Nếu có ứ trệ ở lạc mạch thì châm nặn máu để khử ứ, giảm đau.

+ Nếu kèm hàn chứng có thể dùng “Thiêu sơn hỏa”.

+ Nếu kèm thêm nhiệt chứng, dùng thủ thuật “Thấu thiên lương”.

Chú ý :

+ Người bệnh quá suy yếu không được dùng phép tiêu.

+ Có trường hợp chỉ dùng phép tiêu, có trường hợp như yếu quá, phải vừa tiêu vừa bổ.

8. BỔ PHÁP

Đại cương: Mục đích để làm cho những phần tử của cơ thể bị suy yếu mạnh lên. Có tác dụng phù chính khu tà, hồi phục chính khí.

Áp dụng: Thường nhằm vào 4 loại chính : Âm – Dương, Khí – huyết.

1. Bổ âm: Thường dùng bài Lục Vị Địa Hoàng (Thục địa, Hoài sơn, Bạch linh, Sơn thù, Đơn bì, Trạch tả)

2. Bổ dương: thường dùng bài Bát Vị Địa Hoàng (tức bài Lục Vị, thêm Quế và Phụ tử).

3. Bổ huyết: thường dùng bài Tứ Vật Thang (Thục địa, Xuyên khung, Đương quy, Bạch thược) hoặc bài Quy Tỳ Thang (Đảng sâm, Bạch truật, Phục linh, Cam thảo, Hoàng kỳ, Mộc hương, Đương quy, Nhãn nhục, Táo nhân, Viễn chí).

4. Bổ khí: Thường dùng bài Tứ Quân Tử (Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Cam thảo) hoặc Bổ Trung Ích Khí (Bạch truật, Đương quy, Hoàng kỳ, Nhân sâm, Sài hồ, Thăng ma, Trần bì, Cam thảo, Sinh khương, Đại táo

Cách thức Bổ: có thể bổ bằng 2 cách :

– Bổ trực tiếp vào tạng phủ bệnh, theo nguyên tắc : “Hư tắc bổ”.

Thí dụ : Tạng Can bệnh, bổ vào tạng Can.

– Bổ gián tiếp theo nguyên lý tương sinh của Ngũ hành : theo nguyên tắc “Hư bổ mẫu”.

Thí dụ : bổ Thổ để sinh kim (Phế hư bổ tỳ).

Chú ý:

– Bổ tùy mức độ hư nhiều ít mà dùng bổ mạnh hoặc bổ từ từ.

– Nếu không có hư, không dùng phép bổ.

– Khi bệnh tà còn mạnh, chính khí không suy, phải công tà trước (khu tà) rồi bổ sau (phù chính).

– Khi tà khí còn, chính khí quá suy thì phải vừa công vừa bổ để nâng sức chống đỡ của cơ thể.

Sau kế tiếp là Phương trị.(Nên áp dụng vào Cổ Phương.)

Cuối cùng là tiên liệu ( Áp dụng Lục Khí Lục Vận ), khi nào thụ bệnh và khi nào khỏi bệnh.

Lời khuyên về ăn uống ( Ẩm Thực ). Bệnh nhiệt tránh thức ăn nhiệt (Nóng), Bệnh Hàn tránh thức ăn lạnh , Bệnh thương thực nên ăn thức ăn mềm lỏng dể tiêu và không được ăn no, Bệnh về tiêu chảy, kịp uống nước muối đường và nước gạo rang hạ thổ nấu uống,

Lời khuyên về tình chí : Buồn , Vui , Giận, Lo , Nghĩ ngợi , Uất . Sinh ra bệnh Nôi thương,

Tham , Sân , Si đây là tam Độc , khi ta nổi lên tham, sân, si là đang mời chào thế lực Tà Độc xâm nhập vào cơ thể gây ra bệnh khó chửa được bằng thuốc, cách chữa là sự buông bỏ . Lời khuyên ( Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc)

Khi Mạch Nghịch ( Bất chính ).

1_ Mạch ngịch Âm Dương : mạch tả hửu không đúng phương vị,

Đối với mạch Giới Nam mạch bên tả lực mạch mạnh hơn mạch bên hửu.

Ngược lại mạch Giới Nữ mạch bên hửu mạnh hơn mạch bên tả.

Nếu mạch của Nam có mạch của Nữ và ngược lại mach của Nữ có mạch của Nam . Ta gọi mạch này là mạch nghịch Âm Dương.

Pháp tri: Bổ khí trung châu làm cho khí Tam tiêu hiệp thông, khí đã thông thì huyết sẽ thuận .

Phương Trị: phương Bổ Trung Ích Khí. ( Đây là nghiệm phương trên 30 năm )

2_ Mạch Kết ( Bất chính ).

Khi mạch Kết là phương vị bộ mạch không xuất hiện đúng trên đầu ngón tay của Y gia lúc án xem mạch cho bệnh nhân,

Mạch xuất hiện trên kẻ giữa hai đầu ngón tay khi án mạch ( không hiện trên đầu ngón tay )

Khi án thấy mạch Kết này về mặt y thuật Tạng này khắc tạng kia ví dụ : Tạng Can khắc tạng Tỳ cho mạch bên tay tả ( trái), phủ Đởm khắc phủ Vị.

Bên tay hữu ( phải) : Tạng Tâm bào lạc khắc tạng Phế, Phủ Tam tiêu khắc phủ Đại trường .

Pháp trị :

Những trường hợp trên Y gia cho pháp hoà giải là thượng sách.

Phương trị :

Phương thang : Bài Tiểu Sài Hồ thang, hoặc bài Tiêu dao thang..

Mạch Hóng (mạch Ly) là mạch trung án vô lực.

Mạch Khảm là mạch chỉ có lực trung án, sơ án và trọng án vô lực,

Mạch Khôn là mạch hoàn toàn vô lực từ sơ án, trung án, và trọng án.

Pháp trị: dùng cho cả 3 dạng mạch trên,

Phương tri:

Châm cứu dùng phép vừabổ vừa tả trên đường kinh bị bệnh.

Thuốc dùng vừa thăng vừa giáng, thu liễm cùng với phát tán,

Comments Off on Cho Phương và Cho Pháp trong y học Đông Y .